Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

Chuyên đề: Tư duy dân gian trong thơ Hoàng Cầm


MỞ ĐẦU
   1. Lí do chọn đề tài
1.1.     Văn học dân gian là suối nguồn vô tận cho biết bao thi sĩ muôn đời nay. Ngỡ tưởng rằng thi ca hiện đại sẽ ngày càng xa nguồn để hướng tới cảm quan hậu hiện đại nhưng trên hành trình ấy vẫn có những nhà thơ tìm về với truyền thống, với văn học dân gian để khơi nguồn thơ của mình. Những cái tên như Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Anh Thơ rồi Tố Hữu, Nguyễn Duy….đã chứng minh cho ta thấy ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian tới thi ca. Các nhà thơ đã mượn đôi cánh của dân gian để nâng cánh diều thơ của mình. Sự hôn phối ấy đã tạo nên những hiện tượng văn học độc đáo, những vần thơ còn lưu lại muôn thưở với thời gian.
1.2.               Hoàng Cầm là một nhà thơ độc đáo trong làng văn học Việt Nam hiện đại, một trường giang thơ mênh mang cảm xúc. Đến với thơ ông ta như được lạc vào cõi mơ với những giấc mộng lỡ làng, những khát khao cổ tích, những huyền thoại dân gian, những dùng dằng người ơi người ở đừng về…. Đó chính là “men đá vàng” của hồn thơ Hoàng Cầm đã trường tồn cùng lớp bụi thời gian để đi vào trong lòng bạn đọc muôn đời. Thơ Hoàng Cầm là kết tinh của vẻ đẹp hiện đại siêu thực được chưng cất lên từ điệu hồn của văn học dân gian nói như Đặng Tiến “Thơ Hoàng Cầm ngày nay là những ngọn lửa sưởi ấm cuộc sống, một tia nắng mới trên chân trời cũ”.
1.3.               Về Kinh Bắc” là một tập thơ tiêu biểu của hồn thơ Hoàng Cầm, thể hiện rõ bút lực tài hoa của người thơ xứ kinh Bắc như chính ông cũng đã từng khẳng định : “ Về kinh Bắc là tập thơ “cột sống" của đời tôi. Nó là sự chưng cất, kết đọng tinh túy của văn hóa quan họ - Kinh Bắc, cũng là tinh túy của "văn hóa gốc Việt". Đó là một cuộc trở về bằng tưởng tưởng với Kinh Bắc cũng là với nguồn thơ, để tắm mình trong làn điệu dân ca xứ sở, trong không khí hội hè quê hương, trong tình làng nghĩa xóm…
Ta con chim cu về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm
                          (Về với ta)
Đến với tập thơ ta thấy một dấu ấn đậm nét của chất dân gian trong thơ Hoàng Cầm với những ảnh hưởng của tư duy dân gian – một sự ảnh hưởng có chiều sâu trên cả phương diện nội dung cũng nhưu nghệ thuật chứ không chỉ đơn thuần chỉ là những  sự ảnh hưởng về chất liệu từ văn học dân gian.
Chọn đề tài “Tư duy dân gian trong “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm” người viết muốn khẳng định vai trò to lớn của văn học dân gian trong sự ảnh hưởng với văn học viết đồng thời chỉ ra một hướng tiếp cận mới với thơ Hoàng Cầm – một trong những hiện tượng thơ độc đáo trong làng thơ Việt Nam hiện đại.  Bài chuyên đề đồng thời cũng là sự hiện thực hóa cho những câu hỏi: một thi sĩ hiện đại đã trở về nguồn dân gian như thế nào? Văn hóa dân gian đi qua màng lọc tư duy nghệ thuật hiện đại sẽ biến đổi ra sao? Sự dung hợp giữa hiện đại và truyền thống sẽ tạo ra thành quả gì cho văn chương đương đại?
  2. Lịch sử vấn đề
Trải qua thời gian những thi phẩm của Hoàng Cầm đã nhận được sự quan tâm của bạn đọc và của giới phê bình. Những ảnh hưởng của văn học dân gian đến thơ Hoàng Cầm nói chung và tập thơ "Về Kinh Bắc" nói riêng cũng đã nhận được sự chú ý, đề cập đến trong nhiều bài viết.
Nguyễn Đăng Điệp trong “Vọng từ con chữ” đã khẳng định rằng : “Có một Kinh Bắc thẳm sâu, một Kinh Bắc lộng lẫy, một Kinh Bắc u hoài vóc dáng những người đẹp và đâu đây còn đọng lại giọt nước mắt Trương Chi cứ đi về trong thi giới thơ Hoàng Cầm”. Có thể khẳng định rằng vũ trụ thơ Hoàng Cầm thực chất là hồn quê Kinh Bắc rung lên qua những sợi dây thần kinh thơ ca nhạy cảm được ươm ủ từ thưở ấu thơ. “Trong thơ Việt thế kỉ XX chưa một ai sánh được với Hoàng Cầm khi viết về Kinh Bắc. Đây không phải chỉ là chuyện đề tài mà còn là chuyện hồn cốt, độ sâu sắc của tình cảm hóa vào chữ nghĩa tình điệu. Trên đường về nhà thơ đã hút nhụy văn học dân gian, đã mang theo hồn vía những câu quan họ để làm giàu có thêm trữ lượng thơ mình”.
Hoài Việt cũng đã chỉ ra: “Thơ ông mang đậm âm hưởng vùng đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ, đầy ắp huyền thoại và bảng lảng sương khói dân ca”.
Trần Thị Huyền Thương trong Luận văn “Sự kết hợp của yếu tố hư và thực trong thơ Hoàng Cầm”  đã viết: “Bằng cách tái lập lại những cốt truyện, địa danh của lịch sử và truyền thuyết cổ theo hướng hiện đại hóa thổi sinh khí và sức sống mới cho người và cảnh vật, tạo ra một thế giới khác với thế giới bên ngoài, miêu tả sự vật dưới chiếc kính phóng đại vì thế quê hương Kinh Bắc hiện lên như một thực thể đầy sống động, có hồn, đầy tinh tứ cà duyên dáng”. Sự kết hợp của yếu tố hư và ảo đó không chỉ là sự thể hiện của dấu ấn thơ siêu thực mà nó còn là sự ảnh hưởng của văn học dân gian, của tư duy dân gian. Trong bài viết của mình tác giả mới chỉ đề cập qua về sự ảnh hưởng ấy qua một số chi tiết đơn lẻ đa phần chỉ là vấn đề hình thức mà chưa chú ý được chiều sâu hơn đó chính là tư duy huyền thoại của văn học dân gian đã để lại dấu ấn trên trang thơ của Hoàng Cầm.
Trong “Hoàng Cầm truyền thống và hiện đại” Đặng Tiến với nỗ lực khẳng định “Thơ Hoàng Cầm là cuộc hôn phối hạnh phúc giữa tính dân tộc và tính hiện đại” cũng đã chỉ ra sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến thơ Hoàng Cầm.  Ta có thể thấy rõ điều đó khi nhà phê bình phân tích bài thơ “Cây Tam cúc” cùng những lời nhận định hết sức sắc sảo: “Thơ Hoàng Cầm bắt nguồn từ nền văn hoá kia và tiếng hát ấy. Thi hứng của anh xoáy dọc xoay ngang vào những Kinh Bắc, Thuận Thành, Bát Tràng, Sông Đuống”, “Cũng như những làn điệu dân gian xưa kia, thơ Hoàng Cầm ngày nay là những ngọn lửa sưởi ấm cuộc sống, một tia nắng mới trên chân trời cũ. Những đoá râm bụt nở muộn màng trên bờ giậu làm thắm lại niềm lãng quên bên triền ký ức”.
 Sức sống của thơ Hoàng Cầm là kết quả của nhiều yếu tố mà trong đó không thể không kể đến cội nguồn của văn học dân gian như Lương Minh Chung đã khẳng định trong “Đi tìm phong cách thơ Hoàng Cầm từ đặc điểm tâm lí người làng quan họ” : “Có lẽ, chỉ ở những thi sĩ tắm mình trong sinh quyển ngôn ngữ dân ca, dân nhạc xứ đồng quê Kinh Bắc, đồng thời hít thở trong bầu “sinh quyển” văn hóa Quan họ, và gắn bó tâm hồn mình với nền nếp ứng xử nền nã, hữu tình mới có thể khúc xạ được vào máu thịt nhiều giá trị nhân văn có sức sống lâu bền”.
 “Hoàng Cầm là người dệt thơ từ những giấc mơ” (Nguyễn Đăng Điệp) nhưng không phải chỉ là những giấc mơ siêu thực mà còn được ủ từ chất men đặc biệt của “cái ngậm ngùi thương nhớ của những câu ca vùng quan họ còn bịn rịn đâu đây, cái bình yên siêu thoát của những tiếng chuông chùa vẫn bảng lảng ngân nga trong xa vắng và cái gần gũi với hồn người Việt trong tục ngữ, ca dao” (Nguyễn Việt Chiến – Ông hoàng của thơ trữ tình duy mĩ đã ra đi).
“Là người con đất Quan họ, trong tôi hoà quyện hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật Quan họ, dân ca hoà với dòng máu yêu nước hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng máu đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất”. Đó là lời tâm sự của thi sĩ Hoàng Cầm trong tập thơ Về Kinh Bắc. Có thể nói chính “văn hoá Quan họ chính là chất Men - thơ để làm dậy lên những giọng điệu ngọt ngào và sắc màu ngôn ngữ mang đậm chất Kinh Bắc” (Trần Văn Hoàn) để tạo nên hồn dân tộc trên mỗi trang thơ của Hoàng Cầm dẫn dắt người đọc về với quê hương, với tuổi thơ, với cả một miền kí ức đong đầy,….
Vũ Thị Trang Nhung trong báo cáo khoa học “Trò chơi và lễ hội dân gian trong Về Kinh Bắc” cũng đã thể hiện nỗ lực trong việc chỉ ra những ảnh hưởng của văn học dân gian tới thơ Hoàng Cầm. Tác giả đã chỉ ra được ý nghĩa cũng như nghệ thuật thể hiện của trò chơi và lễ hội dân gian trong tập thơ "Về Kinh Bắc", theo đó tác giả đã khẳng định : “Sinh ra và lớn lên giữa một vùng đất giàu truyền thống với tranh Đông Hồ, với những câu hát quan họ….tâm hồn Hoàng Cầm đã được tắm đẫm trong nguồn văn hóa dân gian. Chính những kết tinh cho vẻ đẹp ngàn đời của miền quê ấy chứ không phải chốn đô thành ồn ào đầy bụi bặm đã tạo nên chất men đá vàng cho những vần thơ của thi sĩ”. Nhưng đây mới chỉ  là một phương diện rất nhỏ thể hiện sử ảnh hưởng của văn học dân gian. Thoát thai từ truyền thống kế hợp với một tâm hồn đa cảm cùng một tinh thần hiện đại Hoàng Cầm đã ủ lên men đá vàng, chưng cất lên những vần thơ đi cùng năm tháng để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc bao đời nay.
Nói tới Kinh Bắc không thể không nhắc tới những làn điệu dân ca quan họ, nó đã ngấm vào máu, vào hồn cốt của mỗi người dân Kinh Bắc . Có lẽ vì thế mà nó đã phả hơi thở nồng nàn của mình vào mỗi trang thơ của Hoàng Cầm: “Hoàng Cầm là một nghệ sĩ quan họ…Hoàng Cầm đã hát lên tâm hồn mình bằng giọng điệu của quê hương mình…Thơ Hoàng Cầm mang giọng điệu quan họ từ trong bản chất”. Những lời nhận xét ấy của Thụy Kha không phải là sự chứng nhận những ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa – văn học dân gian tới thơ Hoàng Cầm đó sao.
Nhưng đặc biệt phải kể đến bài viết của Nguyễn Thị Minh Thương khi tác giả đã khẳng định một cách hết sức rõ ràng, đầy thuyết phục : “Hoàng Cầm đã chọn con đường trở về với văn hóa dân gian, định vị mình trong không gian Kinh Bắc. Nghiên cứu tư duy thơ Hoàng Cầm, sẽ là thiếu sót nếu không nói đến dấu ấn của lối tư duy dân gian”. Và trong bài viết của mình, tác giả đã chỉ ra ảnh hưởng của tư duy dân gian trên một số phương diện quan trọng như yếu tố huyền thoại, môtip dân gian, dạng thức của cái tôi trữ tình, lễ hội dân gian.
Có thể nói vấn đề tư duy dân gian tới thơ Hoàng Cầm chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các tác giả đa phần chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát, chung chung chưa có sự nghiên cứu sâu sắc, đi vào chỉ ra từng biểu hiện cụ thể. Trong dòng thơ ca văn học Việt Nam hiện đại thế kỉ XX, bên cạnh những xu hướng bắt nhịp cùng thế giới với sự cởi trói về tư tưởng, chất liệu….theo phương Tây thì những người như Hoàng Cầm lại chọn cho mình một cách ứng xử riêng đó là đi tìm men đá vàng từ cội nguồn văn hoá - văn học dân gian để từ đó tạo lên những vần thơ độc đáo vừa đậm đặc hồn quê  vừa nồng nàn tinh thần hiện đại của tượng trưng - siêu thực.

3.     Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bài tập chuyên đề, người viết chỉ nghiên cứu tư duy dân gian trong một tập thơ của Hoàng Cầm, và người viết chọn tập thơ tiêu biểu nhất kết tinh vẻ đẹp thơ Hoàng Cầm đó là tập “Về Kinh Bắc”.
4.     Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp so sánh văn học
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp phân tích tổng hợp
5.     Cấu trúc của tiểu luận
Chương 1: Cơ sở của tư duy dân gian trong “Về Kinh Bắc
Chương 2:  Biểu hiện của tư duy dân gian trong “Về Kinh Bắc



NỘI DUNG

Chương 1:
CƠ SỞ CỦA TƯ DUY DÂN GIAN TRONG “VỀ KINH BẮC”
1.     Khái niệm “Tư duy dân gian”
Cuộc hôn phối giữa văn học dân gian và chất hiện đại đã tạo nên một hiện tượng thơ độc đáo – Hoàng Cầm. Thơ ông bắt rễ vào mảnh đất cội nguồn gạn lọc những tinh túy để thanh lọc tâm hồn và làm đẹp cho thơ. Cách ứng xử ấy của người thơ xứ Kinh Bắc  đã thể hiện một hướng đi, một tìm tòi trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần của một nền văn hóa thực chất được tạo ra từ một/ một số kiểu tư duy nhất định và chính bản thân cách tư duy ấy cũng trở thành một giá trị, một bản sắc văn hóa riêng. Tư duy dân gian là cách nghĩ, cách cảm của tập thể nhân dân lao động được hình thành từ lâu đời, được bảo lưu và bồi đắp qua thời gian, trở thành những trầm tích văn hóa, từ đó hình thành nên tâm thức của cả cộng đồng. Tư duy dân gian là một phạm trù rất rộng. Nó có thể được thể hiện qua hoạt động thực tiễn của con người, qua các nghi lễ dân gian, và đặc biệt, được bảo lưu trong những tác phẩm văn học dân gian,…Vì thế, tư duy dân gian có thể được hiểu ở một phạm vi hẹp hơn.Tư duy dân gian ở đây được nói đến là tư duy nghệ thuật dân gian. Tức là tư duy nghệ thuật của cộng đồng được lưu giữ trong những tác phẩm văn học dân gian, thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung – quan niệm về thế giới, cuộc sống con người và cách thể hiện nội dung ấy qua hình thức nghệ thuật biểu đạt. Có thể khái quát tư duy dân gian thành một số đặc điểm như sau: 1– Thế giới này cái thần kì tồn tại như một hiện thực tất yếu, cái huyền ảo không phải là một hư cấu mà họ tin rằng nó thật sự tồn tại 2 – Sự hồn nhiên trong hành trình đi tìm hạnh phúc (thể hiện trong những khát vọng, ước mơ, kết thúc có hậu trong những câu chuyện cổ,…). 3 – Nghĩ, cảm bằng các biểu tượng, mô típ (vì dân gian nhìn thấy trong mọi sự vật hiện tượng luôn ẩn tàng ý nghĩa và thế giới có thể phân loại được). 4 - Tư duy dân gian Việt Nam nói chung và Kinh Bắc nói riêng bên cạnh những nét chung thuộc về tâm thức nhân loại như trên còn có những nét riêng: người Việt Nam trọng tình, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người nhìn chung là thụ động, gắn với tín ngưỡng thờ mẫu, đề cao thiên tính nữ,…
Nếu tư duy dân gian là tư duy của cộng đồng thì tư duy thơ hiện đại là tư duy của cá nhân. Hoàng Cầm đã chọn cách ứng xử riêng khi ông tìm về với cội nguồn văn học dân gian. Hoàng Cầm còn là một nhà thơ hiện đại. Trong ông có sự dung hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và cách tân, tư duy dân gian được kết hợp cùng với tư duy hiện đại tạo nên một sự giao hòa, nối kết, một sự bức phá để làm nên một gương mặt riêng không thể lẫn trong nền văn học Việt Nam.
2.     Cơ sở của tư duy dân gian trong "Về Kinh Bắc"
2.1.         Kinh Bắc – mảnh đất thiêng, cái nôi lớn của văn hóa dân tộc
Kinh Bắc là mảnh đất thiêng, bất kì nơi đâu trên mảnh đất này cũng đầy ắp những giá trị lịch sử, văn hóa được kết tinh trong những di sản văn hóa tiêu biểu.
Bên kia sông Đuống, trên đất Thuận Thành, uy nghiêm lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ tại làng Á Lữ - di tích thờ “Nam Bang thủy tổ” (Ông tổ nước Nam). Thành cổ Luy Lâu ở xã Thanh Khương với các di tích dinh thự, phố chợ đền đài, chùa tháp nguy nga còn lại của trung tâm Phật giáo và Nho giáo lớn nhất của cả nước trong thời kì đầu công nguyên.
Qua Thiên Thai tới Lệ Chi Viên - dấu tích hành cung Đại La nơi xảy ra vụ án oan nghiệt của Nguyễn Trãi. Từ  Đại La sang chùa Đại Bi quê hương của nhà sư – thi sĩ nổi tiếng. một trong ba vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Huyền Quang. Xuống cửa Lục Đầu, Bình Than vũ công lẫy lừng, vào thăm đền  thờ và lăng mộ của Cao Lỗ Vương, nhà quân sự tài ba đã giúp An Dương Vương chế ra nỏ thần.
Với Kinh Bắc, hệ thống chùa chiền vừa là danh lam thắng cảnh vừa là nơi lưu giữ những giá trị văn học tinh thần của người Việt. Trên mảnh đất này có hàng trăm ngôi chùa, đền tháp lớn nhỏ. Những đền đài, chúa tháp ở đây có kiến trúc độc đáo, hoa văn chạm khắc tinh xảo, công phu. Có thể kể đến những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Keo, đình Đình Bảng,…Sự có mặt của những công trình này đã chứng tỏ dấu ấn của Phật Giáo từ ngàn xưa khi Kinh Bắc còn là trung tâm văn hóa Luy Lâu đồng thời khẳng định bàn tay khéo léo, tài hoa của cư dân nơi đây.
Đây còn là mảnh đất được mệnh danh là đất “trăm nghề” với nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng: nghề đúc gốm Phù Lãng, nghề trồng dâu nuôi tằm ở Thuận Thành, Từ Sơn, nghề đúc đồng Quảng Bố, nghề làm đồ mã, áo giấy, tranh dân gian Đông Hồ, nghề sơn mài Đình Bảng, nghề chạm khắc gỗ Phù Khê…
Những giá trị văn hóa dân gian được phản ánh qua huyền thoại, truyền thuyết, qua ca dao, tục ngữ và đặc biệt là qua sinh hoạt lễ hội, Kinh Bắc là vương quốc của lễ hội. Có thể nói mùa xuân là mùa của lễ hội, nó vừa thể hiện tín ngưỡng văn hóa vừa thể hiện tinh thần cộng đồng truyền thống của người Việt với những lễ hội như Hội Lim, hội chùa Dâu, hội Đình Bảng, hội làng Vân…. Người Kinh Bắc tới lễ hội không chỉ để thưởng thức các danh thắng mà quan trọng hơn là để thanh lọc tâm hồn, tìm về với những giá trị cội nguồn. Bởi lễ hội là điểm hội tụ của những giá trị văn hóa, đem lại một môi sinh dồi dào ccho thi ca, nhạc họa. Với mỗi một người con Kinh Bắc đều khắc sâu trong tâm khảm hình ảnh về lễ hội quê hương và có lẽ Hoàng Cầm là người đã in sâu đậm hơn ai hết để từ đó làm giàu nguồn thơ ca của mình.
Nói tới Kinh Bắc, ta không thể không nhắc tới dân ca quan họ - nét đặc trưng, linh hồn của văn hóa nơi đây. Vùng Kinh Bắc có tới 49 làng quan họ, hầu hết đều tập trung quanh thị xã Bắc Ninh và các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Yên Phong. Hát quan họ không chỉ có mặt trong các lễ hội của Kinh Bắc mà làn điệu dân ca này còn được tổ chức thành hội riêng. . Hội Quan họ diễn ra ở trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa, hay bồng bềnh trên những chiếc thuyền thúng giữa ao hồ - dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát chàng Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Đến hẹn lại lên. Vào hội, các liền anh áo the khăn xếp, các liền chị nón thúng quai thao, áo mớ ba mớ bẩy được gặp gỡ với những tình cảm nồng ấm, thân tình, tinh tế và lịch lãm theo lối riêng của người Quan họ. Họ hát lên những làn điệu trong kho ngôn ngữ dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Ngôn ngữ Quan họ là sự hội tụ tuyệt vời của ngôn ngữ thơ ca và nhạc hoạ trong những cung bậc tình cảm giao hoà giữa nam và nữ, giữa con người với con người, con người với thiên nhiên tạo vật và thần linh... thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống hạnh phúc, phồn thịnh, thuỷ chung như nhất. Những câu hát ấy là suối nguồn yêu thương, là con thuyền chuyên chở  những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc từ ngàn đời nay, những tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người. Và nó còn là tấm gương để mỗi người khi soi mình vào trong đó tâm hồn như được thanh lọc, là thế giới của mộng mơ đưa con người viễn du tới cõi thần tiên, cổ tích…
Có thể nói, mảnh đất Kinh Bắc ấy đã trở thành cái nôi văn hóa lưu giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ ngàn đời nay.  Chính những giá trị văn hóa ấy như chất phù sa màu mỡ lắng đọng vào hồn thơ Hoàng Cầm đã góp phần hun đúc lên tâm hồn, tài năng của thi sĩ.
2.2.         Gia đình, con người  và cuộc đời Hoàng Cầm
2.2.1.  Gia đình
Nhà thơ Hoàng Cầm (còn có bút danh : Lê Thái, Lê Kì Anh, Bằng Phi, Bùi Hoài Việt, Hoài Sơn) tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Cha ông là Bùi Văn Nguyên (1890 – 1959), quê làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Sinh thời cụ làm thầy thuốc chăm lo sức khỏe cho nhân dân và có một cửa hàng bán thuốc bắc nhỏ ở thôn Như Thiết, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Mẹ là bà Nguyễn Thị Duật (1892 – 1961),quê làng Bịu Xim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ngôi làng nổi tiếng đã sinh ra bà Trần Thị Tần – thân mẫu của đại thi hào Nguyễn Du. Bà Duật là một cô gái kiều diễm, thanh tao với nhan sắc mặn mà, lại có giọng hát say đắm lòng người. "Một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc óng ả, kiều diễm, có đôi mắt "lúng liếng" thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao, và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, ai trông thấy phía trước đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng dập dờn" . Hoàng Cầm ảnh hưởng rất lớn từ mẹ, những câu hát quan họ của bà chuyên chở biết bao yêu thương đã sưởi ấm, nuôi dưỡng tâm hồn và ngọn nguồn nghệ thuật cho hồn thơ Hoàng Cầm để ông lựa chọn cho mình một cách ứng xử riêng đó là quay về với truyền thống, về với văn hóa dân gian.
2.2.2.  Con người
Hoàng Cầm là một người sinh ra như để dành riêng cho thơ. Thơ đến với ông một cách tự nhiên, dung dị như chờ đợi sẵn sự ra đời của người để khoác lên cho ông đôi cánh của nàng thơ. Đúng như Hoàng Cầm đã từng thổ lộ : “Tôi cảm thấy có nghiệp văn chương từ bé. Tôi sớm có cái buồn cô đơn khi mới lên 5, lên 7. Giời bắt tội tôi yêu sớm quá. Ngày ấy tôi mới 8 tuổi, một hôm tôi từ chỗ trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương về nhà chiều thứ 7. Chưa kịp bước vào trong nhà đã thấy một cô gái đang cúi bên chiếc bồ hàng xén của mẹ tôi. Khi cô ấy ngẩng đầu nhìn ra đường, thì cậu bé là tôi choáng váng tâm hồn. Người con gái ấy tên là Vinh, hơn tôi 8 tuổi. Thứ 7 sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát dài hơn một trang giấy kẻ học sinh, trên vẽ hoa bướm, một vài ngọn núi, dòng sông, với dòng chữ viết bằng mực tím nắn nót: "Em gửi chị Vinh của em"”.
Con người ấy lại vốn đa tình “Tôi là thi sĩ đa tình thật sự. Đó là trời cho chứ tôi không cố tỏ ra đa tình.” Ông vẫn ví tình yêu tựa như vì sao cô đơn trên bầu trời, chỉ có thể ôm mối mộng mơ được chạm tay vào vì sao kia cho dù sẽ bị thứ ánh sáng huyền diệu nhưng khốc liệt của tình yêu thiêu đốt.
“Cái tạng” con người ấy khi được uống suối nguồn dân gian như được chắp thêm đôi cánh lãng mạn, bay bổng để cánh diều thơ ông cứ bay vút lên cao mãi đi đến bến bờ của huyền diệu thậm chí có lúc đi vào địa hạt của siêu thực. Nhưng dù có siêu thực nhưng khác với Hàn Mặc Tử hay Đinh Hùng thơ của Hoàng Cầm vẫn có dấu ấn của truyền thống, của dân gian chứ không hoàn toàn ngụp lặn trong cõi mơ mộng của lâu đài huyền bí.
2.2.3.  Cuộc đời
Đời thơ của Hoàng Cầm có những lúc ngỡ đã tưởng sẽ “xuôi chèo mát mái”  như thời kì kháng chiến chống Pháp, ông tham gia phục vụ cách mạng với tiếng thơ trẻ trung tràn đầy tinh thần yêu nước. Song con sông nào cũng có những khúc uốn lượn và đời thơ Hoàng Cầm cũng thế. Tôi muốn nhắc tới vụ Nhân văn – Giai phẩm 1956 – 1958, sau nhiều năm ông không được xuất hiện trên thi đàn. Trong những ngày tháng sống cô đơn ấy lại là những khoảnh khắc nhà thơ nghĩ nhiều nhất, chiêm nghiệm về cuộc đời để sống thực với lòng mình. Trong ngôi nhà 43 Lý Quốc Sư, ông đã làm một “cuộc trở về” bằng tưởng tưởng – một cuộc trở về vĩnh cửu “tất cả tôi bơi, chìm trong da thịt quê hương, hồn phách quê hương – quê hương Kinh Bắc….và tôi cứ chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với bao bóng dáng, bao đường nét, sắc màu, hương vị đã quá xa, đã khong còn nữa….chuyện tình yêu với những nỗi buồn cô đơn, nỗi xa cách  ly biệt cứ từng từng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió miên man một màu xanh huyền diệu dĩ vãng rồi xé ngang, vạch chéo, vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu rung động”. Thơ ca đã trở thành vị thuốc chữa lành vết đau nhân gian. Và trong lúc ấy cũng là lúc ông tìm ra con đường thơ của mình, ngụp lặn trong kí ức, hoài niệm, thanh lọc tâm hồn qua văn học dân gian để cùng với tinh thần mới của thơ hiện đại làm nên chiếc “lá diêu bông” độc nhất vô nhị trong làng văn học Việt Nam. Tập thơ "Về Kinh Bắc" được viết từ mùa thu 1959 đến giữa xuân 1960 là viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống, huyền ảo giữa hai bờ hư thực.
Chương 2:
BIỂU HIỆN CỦA TƯ DUY DÂN GIAN TRONG "VỀ KINH BẮC”

1.     Tư duy huyền thoại
Huyền thoại là một kiểu tư duy đặc trưng của tư duy nguyên thủy. Nó được in dấu đậm nét trong văn học dân gian qua những thể loại : thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cố tích nhưng đậm đặc nhất là ở thần thoại. Thần thoại là nguyên lí niềm tin có thật. Tư duy huyền thoại khiến con người nhìn thế giới như một thực thể thực ảo trộn lẫn, thế giới được bao bọc trong một không khí huyền ảo với những vật thần kì, siêu nhiên. Lévy Bruhl trong Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy đã chỉ ra rằng: “Trong ý nghĩ của người  nguyên thủy, thế giới huyền thoại (dựa vào kiểu thế giới đó, họ tạm hình dung thế giới vô hình), tuy rằng họ cảm thấy thế giới đó khác với thế giới này, và rằng nó thuộc về thời kỳ trong đó vẫn còn chưa có thời gian, tuy nhiên thế giới ấy không phải là ở nơi khác, ở bên ngoài vùng đất họ cư trú, thậm chí cũng không phải là ở bên kia đường chân trời. Tất cả những gì xảy ra trong thế giới đó lấy vùng đất mà họ đang sinh sống làm sàn diễn”. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, nguyên lí niềm tin ấy đã trở thành lớp trầm tích của thời một đi không trở lại Nhưng đi theo dòng thời gian, tư duy huyền thoại ấy không hề mất đi, nó được hồi sinh trong một dạng thức mới có sự dung hợp với tư duy hiện đại. Các nhà văn, nhà thơ đã lựa chọn huyền thoại như một phương thức nghệ thuật để thể hiện những vấn đề nhân sinh thế sự của thời hiện đại. Trong thế giới hiện sinh có biết bao những vấn đề không thể lí giải bằng khoa học, có biết bao những bức xúc, những phi lí, con người rơi vào vòng hoài nghi, bế tắc có  khi không thể tìm được lối thoát. Người nghệ sĩ phải tìm tới huyền thoại, tư duy huyền thoại để giải tỏa những ẩn ức, biểu hiện những khát khao tìm đường, cách trở về nguồn là một cách để tìm con đường mới và để nhìn thế giới theo một chiều kích khác.
Đến với "Về Kinh Bắc" của Hoàng Cầm ta sẽ nhận thấy dấu ấn của tư duy này khá rõ nét. Tác giả đã tạo dựng lên một thế giới có sự hòa trộn giữa cái thực và cái ảo mà nói như Thụy Khuê đó là một “sa mạc Hoàng Cầm lung linh giữa mơ và thực”. Những hình ảnh lạ lẫm: Ao mưa dằng dịt lá trường sinh, hái quả vườn ổi lại đi qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa, trò chơi đố cỏ, đố lá quen thuộc, nhưng cỏ và lá ở đây là cỏ bồng thi, lá diêu bông, thời gian cũng được huyền thoại hóa với những chiều liêu trai, đêm hồ tinh, đêm vàng Kinh Bắc,...Tất cả đều mang dấu ấn của tư duy huyền thoại. Người xưa nhìn thế giới cũng qua lớp màn sương huyền diệu để thấy cái ảo – thực lẫn lộn và tin rằng thế giới màu nhiệm như thế. Và Hoàng Cầm đã kết nối hai thế giới thực và ảo, kết nối Kinh Bắc ngày nay và Kinh Bắc của quá khứ, giữa hiện tại và tuổi thơ .
Đọc "Về Kinh Bắc" có cảm giác giống như một nghi lễ  dân gian. Mà đã là nghi lễ dân gian thì phải được huyền sinh trong những quãng thời gian luân chuyển – đêm để khấn nguyện, nhập hồn. Đêm được nhà thơ nhìn dưới cái nhìn ngũ hành. Đêm là bà đỡ cho giấc mơ quay trở về thế giới Kinh Bắc, với quá khứ xa xôi của thời kì hỗn mang tăm tối. “Đêm Thổ” nâng đỡ Kinh Bắc bằng hành trình trở về với thế giới “cúi lạy mẹ con trở về” kiếm tìm ai đó để trò chuyện nhưng vô vọng trong tâm trạng “con nghẹn khóc/con không cười/con thoảng nhớ thoảng quên” tất cả như ảo ảnh, hiện hữu mà vô hình dẫu có “Mẹ đón con rung lại giấc mơ dang dở”. Đêm Mộc tâm hồn con đã được bình yên “Ngủ lại giấc mơ dang dở”, Đêm Thủy vùi tràn thế giới trong mưa gió “Ao mưa dằng dịt lá trường sinh” để sự sống bừng lên, con người đi vào cõi phiêu du tâm linh chập chờn. Và cuối cùng đêm Hỏa hoàn thành hành trình sáng tạo thế giới với những kí ức tuổi thơ đẹp tìm chơi đàn kiến lửa, ngón tay di sợi chỉ nâu, mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu, giun đất thòng lòng mỏ con gà trụi...Nhưng với Hoàng Cầm thời gian dù nhuốm màu thiêng vẫn còn phập phồng những hi vọng thầm kín của con người trần thế. Đó là những khoảnh khắc bừng ngộ sau chuỗi ngày âm thầm chờ đợi, những khoảnh khắc giải tục, bắt lấy những tín hiệu đưa đến những rung động ngất ngây, thi vị của cõi Kinh Bắc trần thế tinh khiết trong trẻo.
Từ Kinh Bắc trong hiện tại trở về Kinh Bắc trong quá khứ, từ Kinh Bắc thực gọi dậy cả một Kinh Bắc ảo sinh, Hoàng Cầm đã diễn đạt khoảng giao thoa giữa hai thế giới. Về Kinh Bắc bằng những đứt gãy trong mạch cảm xúc. Đó là sự gãy khúc mà ở đó ranh giới giữa cõi thực và cõi ảo chạm xiết nhau, tạo ra những đột biến tâm linh, trong giây phút, con người được mặc khải, gặp gỡ với một thế giới khác ngoài thực tại: Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ/ thoắt chìm/ Gấu đẩy đá thiên thai, Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng, Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng/ Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông, Vại bỗng ngất ngư cười cải mả/ Bát bỗng lim dim tìm mắt gái muộn chồng, Mắt sư nữ chùa Thầy/ Thoắt xanh màu xanh xứ Lạng, Chợt rùng mình níu đêm đồng lõa/ Gai xiên đâm mười ngón ân tình,...Các từ bỗng, chợt, thoắt, lặp lại với tần số cao trong tập thơ gợi nên tính chất đột biến, vụt hiện. Trong Đêm thổ - thi phẩm mở đầu cho cuộc hành trình trở về Kinh Bắc, sau giây phút thoắt chìm, thế giới Kinh Bắc thực chìm đi trong cõi huyệt mộ, lầu hoang, mồ mưa sũng. Kinh Bắc hiện lên như một âm bản. Tất cả được khâm liệm với Châu chấu ma vờn cổ yếm xây, Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm, Cô nàng xưa cắn chắt/ Giờ đã nằm lưng giậu phủ tầm xuân,...Nhưng khi bước qua thế giới huyệt mộ ấy rồi, Kinh Bắc hiện về rực rỡ, ồn ào, hoàng kim trong những đêm vàng, đêm hội, trong quá khứ vàng son với những vương hậu, ái phi, với nhịp sống và lễ hội văn hóa ngàn đời.
Kinh Bắc trong tâm tưởng của nhà thơ trong giấc mơ của hành trình trở về. Chỉ trong giấc mơ ấy con người mới giải tỏa được bao nỗi uất hận, bao khát khao không thành để đi đến một thế giới của huyền nhiệm. Nhập hồn, khấn nguyện để con người rơi vào cõi tâm linh sâu thẳm trở về tuổi thơ, quá khứ để sống trong nguyên sơ của bản thể, tìm về với chính mình:
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
                 đi mãi tìm sim sim chẳng chín
Ta lên đồi thông gặp miếu Hai cô
                 gặm cỏ mưa phùn
                  .....
Ta con phù du ao trời chật chội
Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
                                                                (Về với ta)
Có người cho rằng đây là kết quả của lối viết tự động, một sự siêu thăng của cõi vô thức. Đúng là có sự thâm nhập của vô thức nhưng có lẽ trước hết phải nói tới cội nguồn sâu xa đó chính là tư duy huyền thoại – một tư duy đặc trưng của văn học dân gian. Tư duy ấy cùng với sự thăng hoa tới tộ đỉnh của tâm hồn đã giúp Hoàng Cầm thực hiện hành trình trở về với Kinh Bắc trong những giấc mơ, những “đêm tiền sử, đêm vàng Kinh Bắc”.
2.     Quan niệm tình yêu gắn liền với hôn nhân
Một đặc điểm khác của thơ tình yêu Hoàng Cầm là nói nhiều đến hôn nhân. Với Hoàng Cầm, tình yêu sóng đôi với hôn nhân. Đây là quan điểm gắn liền với tư duy dân gian ta xưa. Truyện cổ tích kết thúc thường là những cuộc hôn nhân của các nhân vật tốt bụng sau khi trải qua những sóng gió, thử thách có thể thấy như trong truyện Thạch Sanh, Tấm Cám, Sọ Dừa….Trong ca dao cũng vậy xu hướng vận động của nhưng bài ca tình yêu bao giờ tới kết thúc cũng nói đến trầu cau, đám cưới như là một điều tất yếu. Thơ Hoàng Cầm nói rất hay về đám cưới -  một biểu tượng của hôn nhân. Trước 1945, Đoàn Văn Cừ và Nguyễn Bính viết nhiều về đám cưới. Đám cưới của Đoàn Văn Cừ tưng bừng, rộn rã, đầy âm thanh, màu sắc, tập tục... Các đám cưới trong thơ Nguyễn Bính cũng gắn liền với ước mơ tình yêu, với sự thi đỗ (Võng anh đi trước võng nàng, Cả hai chiếc võng cùng sang một đò - Giấc mơ anh lái đò), chàng và nàng hóa thân thành đôi bướm cưới nhau... Đám cưới của Nguyễn Bính, một là giấc mơ tình yêu, gắn với tình yêu, đầy chất lãng mạn, chất platonique; hai là đều vui tươi, đầy màu sắc, thỏa mãn, còn đám cưới thơ Hoàng Cầm là giấc mơ tình dục không được thỏa mãn, nên rất buồn. Nhiều khi đó chỉ là giấc mơ con trẻ đóng giả "vợ chồng" gọi là "làm ở".
- Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưỡi chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Cắm bốn que tăm
Khênh nhị hỷ đẫy lưng lợn béo
Phần Mẹ khúc đuôi tròn
Phần Chị nửa mình thon
Phần Em hai chân ngơ ngác
Tăm cắm chật bình hương
Em xít xa tập khấn
Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương.
                                                                              (Đợi mùa)
- Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới Chị
võng mây trôi
Một chiếc xe đen thăm thẳm phía chân trời
                                                                              (Cây tam cúc)
Nhưng dù vậy ta sẽ vẫn thấy một điều rất khác với dân gian, những cuộc tình duyên trong thơ ông không phải là mối duyên của những trai tài gái sắc của hoàng tử công chúa mà là những mối duyên ngang trái, mối tình Chị - Em. Khoảng cách ở đây là khoảng cách tuổi tác, tâm lí chứ không phải là rào cản giai cấp, giàu – nghèo như trong truyện cổ tích. Những đám cưới trong dân gian chính là sự gửi gắm mơ ước về công lí công bằng xã hội cùng ước vọng đổi đời của người dân nghèo. Còn thơ Hoàng Cầm nói tới đám cưới nhưng đó mãi chỉ là một giấc mơ cổ tích, giấc mơ tình yêu của chàng thi sĩ suốt cuộc đời cứ đi tìm chiếc lá diêu bông trong huyền thoại không thể nào thành hiện thực.
3.     Dạng thức cái tôi trữ tình
Trước hết, có thể thấy dạng thức cái tôi trữ tình trong Về Kinh Bắc có sự gặp gỡ với kiểu nhân vật quen thuộc trong cổ tích dân gian: nhân vật mồ côi. Nhân vật mồ côi rất tiêu biểu trong truyện cổ tích thần kì (anh Khoai – Cây tre trăm đốt, Tấm – Tấm Cám, Chử Đồng Tử - Chử Đồng Tử, Lọ Lem – Cô bé Lọ Lem,...). Kiểu nhân vật này hiền lành, tốt bụng, có số phận bất hạnh, nhưng nhìn chung là thụ động, yếu ớt, thường xuyên phải có sự trợ giúp của những lực lượng siêu nhiên mới có thể thực hiện được ước mơ. Sáng tạo kiểu nhân vật mồ côi, dân gian muốn phản ánh thực trạng đau khổ của người lao động trong xã hội xưa, và qua họ, gửi gắm những ước mơ về hạnh phúc, một xã hội công bằng cái thiện chiến thắng cái ác.
Hoàng Cầm tuy không phải là một đứa trẻ mồ côi nhưng lại mang mặc cảm mồ côi. Mặc cảm ấy cùng với tư duy dân gian đã tạo nên dạng thức của cái tôi cô đơn, côi cút. Nếu như những nhân vật dân gian gửi nỗi niềm ấy vào trong tiếng khóc thì nhân vật trữ tình trong thơ Hoàng Cầm lại chỉ biết Em đứng nhìn theo em gọi đôi khi tịnh vàng cưới Chị (Cây tam cúc), chỉ biết nghe theo lời Chị bảo, câm lặng đi tìm để rồi chấp nhận mọi khước từ, chỉ biết Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng (Quả vườn ổi), nó thụ động trong cuộc chơi để người khác đưa đường: Chị đưa em đến bến này (Cỏ bồng thi), nó chỉ biết van xin và phản ứng yếu ớt: Ngày chị bảo Em quên/ Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ/ Tha cho em/ Tha em (Nước sông Thương), và bất lực hoàn toàn: Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương (Đợi mùa)... Nhân vật trữ tình không có cái mạnh mẽ nồng nàn nam tính người con trai trong thơ Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi, cũng không có cái táo bạo như Đồng Đức Bốn sau này: Em bỏ chồng về ở với tôi không. Đúng như lời Phạm Thị Hoài đã nhận xét : “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa, phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm và nhiều nữ tính.
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt căn bản giữa dạng thức cái tôi trữ tình của Hoàng Cầm và kiểu nhân vật mồ côi trong văn học dân gian. Xây dựng kiểu nhân vật mồ côi, dân gian muốn hướng đến những vấn đề xã hội: vấn đề thân phận con người, đấu tranh giai cấp, lẽ công bằng,...Bởi thế  nhân vật mồ côi trong truyện cổ là nhân vật chức năng, nó đại diện cho tư tưởng, quan điểm của nhân dân, được sự trợ giúp của những lực lượng thần kì để thực hiện những ước mơ đẹp đẽ, lãng mạn. Dân gian không tập trung diễn tả đời sống nội tâm nhân vật. Nỗi đau tâm hồn của nhân vật mồ côi không phải là một ám ảnh. Ẩn trong hình tượng nhân vật mồ côi là cái nhìn, tiếng nói của tập thể về những vấn đề xã hội. Dạng thức cái tôi trữ tình trong “Về Kinh Bắc” mang tâm thức mồ côi. Nó mang tính cá nhân đầy cảm xúc và ám ảnh. Nó là nỗi đau riêng mà nhà thơ nếm trải, bởi thế, ông thể hiện nó với tất cả những đau đớn, day dứt, dang dở của những khát vọng không thành. Nói cách khác, ở truyện cổ tích, chỉ xuất hiện kiểu nhân vật mồ côi chứ chưa xuất hiện nhân vật cô đơn. Còn ở Hoàng Cầm, kiểu nhân vật mồ côi đã trở thành cảm thức về nỗi cô đơn – một cảm thức lớn của con người thời hiện đại. Đó cũng chính là sự khác biệt căn bản giữa tư duy văn học dân gian và văn học viết. Một bên là tư duy của cộng đồng, một bên là tư duy sáng tạo của cá nhân.
Dấu ấn của tư duy dân gian thể hiện trong tính khuynh nữ của cái tôi trữ tình. Tình cảm gắn bó với mẹ và luyến ái với chị khiến cái tôi trong Về Kinh Bắc mang dạng thức một cái tôi khuynh nữ. Hoàng Cầm thường tìm đến những vẻ đẹp mang thiên tính nữ mà phần bản chất nhất, cốt lõi nhất của thiên tính này là tính mẫu. Tư duy khuynh nữ chịu ảnh hưởng rõ nét của tư duy cộng đồng. C. Jung trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, cho rằng tính nữ tượng trưng cho phương diện của vô thức, gọi là Anima. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã đặt tính mẫu trong tương quan với tính nữ: “Người việt cổ mình là thờ người Mẹ, người mang nặng đẻ đau, ôm ấp, che chở, nuôi nấng và chăm bẵm con mình suốt đời, nó khác hoàn toàn với tính nữ. Nếu tính nữ đơn thuần chỉ là tính mềm mại, uyển chuyển, tính nhu thì Mẫu Thượng Ngàn vẫn có tính nữ nhưng trong đó tính nữ phát triển lên trọn vẹn là tính mẫu”.
Về tư duy, lối tư duy duy cảm là tư duy mang tính nữ, thiên về cảm tính hơn lí tính. Nó tạo ra những hình ảnh của vô thức, ngẫu nhiên, lộn xộn, đứt đoạn, để lại những khoảng trống trong liên tưởng và những khoảng trắng, sai ngữ pháp trong hệ thống ngôn từ. Về thế giới cảm xúc, một mặt, thế giới cảm xúc của Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc tràn ngập nỗi khát khao trở về với mẹ:
Mẹ ơi
Mẹ ơi
Con không mong trời mưa
Mưa không được thả diều
Bây giờ mẹ ở đâu
                      (Đứa trẻ)
Bao giò mẹ về
Vai áo toạc ba vá chẳng tơ dứa
Bao giờ mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
                      (Đợi mẹ)
Con đi tìm mẹ
Tre giậm lông mày
Ao bèo chột mắt
Bàn tay mẹ cắt
Gửi quà cho con
             (Quà mẹ)
Mặt khác, tính nữ thể hiện trong ảo mộng theo đuổi những giấc mơ tình yêu lứa đôi: giấc mơ tình chị em với chiếc lá diêu bông, cỏ bồng thi, cây tam cúc, quả vườn ổi…. Hình ảnh của Chị của Mẹ - những người con gái Kinh Bắc luôn in đậm trong tâm trí của nhà thơ, tìm về Mẹ với Chị cũng là trở về với tuổi thơ, với quá khứ, với giấc mơ hạnh phúc còn dang dở….
Có thể thấy, dạng thức cái tôi trong Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm mang cảm thức mồ côi và thiên về tính nữ. Dạng thức cái tôi này mang đậm dấu ấn của tư duy dân gian trong kiểu dạng nhân vật mồ côi của truyện cổ tích và tâm thức nghiêng về tính nữ trong lối tư duy duy cảm và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Sự hòa hợp giữa tư duy dân gian trong tư duy của nhà thơ hiện đại đã tạo nên dấu ấn riêng cho cái tôi trữ tình của Hoàng Cầm.
4.     Cách xây dựng môtip
Nói tới văn học dân gian không thể không nhắc tới các môtip, môtip được sử dụng hầu hết trong các thể loại đặc biệt trong truyện cổ tích. “Về Kinh Bắccủa Hoàng Cầm đã sử dụng nhiều mô típ dân gian. Các mô típ quen thuộc của dân gian: sự ngăn cấm (dặn dò không được làm gì), sự vi phạm (quên lời dặn, làm trái lệnh), sự rời khỏi (nhân vật chính ra đi), mô típ thách đố, mô típ đi tìm vật thiêng...
Nhân vật trữ tình trong tập thơ đã phạm phải điều ngăn cấm của tình yêu: một đứa trẻ có tình cảm luyến ái với một người đã trưởng thành. Tình yêu Em – Chị là nét riêng của Hoàng Cầm trong thơ tình yêu. Chị bảo em quên (Nước sông Thương), nhưng bất chấp sự cấm kị ấy, nhân vật phản kháng: Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ và cầu xin: Tha cho em/ Tha Em). Đây đều là những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian: Adam và Eva phạm tội tổ tông, ăn trái cấm nên bị trừng phạt, Promete phạm điều cấm kị đánh cắp lửa thiêng xuống cho loài người nên bị xiềng trên vách núi, Nàng Tô Thị lấy nhầm anh trai làm chồng nên phải trở thành vọng phu hóa đá,  người em trong Sự tích trầu cau phải bỏ nhà đi vì sự nhầm lẫn của vợ người anh, dẫn đến kết thúc bi kịch cho cả ba nhân vật trong câu chuyện, Thị Màu mang thai hoang bị làng phạt vạ,...Phạm phải cấm kị - Phản kháng – Hình phạt của cộng đồng là những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian đã lưu lại dấn ấn trong sự sáng tạo của Hoàng Cầm ở Về Kinh Bắc.
Môtíp thách đố thể hiện ở một số thi phẩm của Hoàng Cầm (Lá diêu bông, Cỏ bồng thi). Đó là mô típ được định hình trong văn học dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích và ca dao dân ca. Ở truyện cổ tích, đó là những thử thách đặt ra với nhân vật, nếu vượt qua thử thách sẽ được phần thưởng. Ở ca dao dân ca, thách đố được gửi gắm trong những lời hát đố: đố hoa, đố vật,... Thách đố trong Về Kinh Bắc là đố lá diêu bông, đố cỏ bồng thi: Chị bảo/ đứa nào tìm được lá diêu bông/ từ nay ta gọi là chồng, Ngày mười bảy tuổi/ chót chơi đố cỏ Bồng Thi/ cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá. Nếu câu đố trong ca dao dân ca hay trong truyện cổ tích, thử thách đặt ra dẫu có khó khăn bao nhiêu cũng có thể vượt qua bởi được trợ giúp bởi những vật thần kì thì trong thơ Hoàng Cầm, câu đố là bất khả giải, thực hiện việc thách đố là bất khả thi. Lá diêu bông, cỏ bồng thi là những điều không thực và Em cũng không được sự giúp đỡ của thần linh. Bởi thế, câu đố trong thơ Hoàng Cầm là câu đố bất khả giải. Hoặc nếu giải được rồi thì cũng không được công nhận: rất nhiều lần nhân vật tìm thấy Lá, nhưng đều bị chị - người thách đố khước từ. Em đã thất bại trong cuộc chơi tình yêu.
Môtip thách đố gắn liền với môtip đi tìm. Với Em đó là một hành trình đầy những vất vả, gian lao thậm chí là trong vô vọng, mông lung chỉ có  tình yêu làm hướng dẫn đường. Đi tìm chị, em phải qua “cầu bà Sấm, bến cô Mưa”, em tìm cỏ Bồng Thi nơi “cheo leo mỏm đá”. Trong những cuộc hành trình tìm kiếm của Em, chỉ có duy nhất một lần tìm thấy: Hai ngày Em tìm thấy Lá/ Chị chau mày/ đâu phải lá Diêu Bông//Mùa đông sau/ Em tìm thấy lá/ Chị lắc đầu/ trông nắng vãn bên sông//Ngày cưới chị/ Em tìm thấy Lá/ Chị cười/ xe chỉ ấm trôn kim// Chị ba con/ Em tìm thấy Lá/ Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn. Nhưng đọc kĩ hơn, sự tìm thấy ấy hoàn toàn bị phủ nhận bởi người thách đố, chỉ là sự tìm thấy đơn phương của em. Việc tìm thấy lá chẳng có nghĩa gì người thách đố không công nhận. Khi người thách đố đã rời bỏ cuộc chơi thì vật thách đố cũng không còn ý nghĩa. Bởi thế, nhìn trên bề mặt văn bản: Từ thủa ấy/ Em cầm chiếc . Chiếc lá được tìm thấy ở đây đã không còn là chiếc viết hoa như trước nữa. Chiếc lá đã bị mất thiêng. Bởi chiếc lá diêu bông chỉ là vật thiêng mà Em có thể đánh đổi cả cuộc đời để kiếm tìm khi nó gắn với phần thưởng thiêng liêng: được là chồng của chị. Nhưng khi chị đã lấy chồng, rồi ba con, thì niềm hi vọng của Em trở thành vô vọng. Chiếc lá – tín chỉ của tình yêu, giờ chỉ là một chiếc lá bị mất giá. Nó chở nặng nỗi đau về hi vọng bị tước đoạt, khát khao hạnh phúc bị chối từ. Ở Quả vườn ổi cũng vậy, từ quả chín, quả ương đã bị mất thiêng để trở thành quả rụng. Em chỉ nhận được chiếc lá bình thường và dăm quả rụng chiều mưa.
Như thế, những cuộc kiếm tìm trong Về Kinh Bắc đều là những cuộc kiếm tìm vô vọng. Cả lá diêu bông, quả vườn ổi, cỏ bồng thi đều là những “cấm vật” mà Em không bao giờ chạm tới. Vật thiêng (lá diêu bông, quả vườn ổi, cỏ bồng thi) chính là biểu tượng cho tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mà nhân vật kiếm tìm. Trong thần thoại, cổ tích, vật thiêng có thể là thuốc trường sinh, lọ nước thần, tấm da cừu vàng,...chúng đều đem lại hạnh phúc và sự thần diệu cho cuộc sống con người. Để có được những vật màu nhiệm ấy, nhân vật của huyền thoại phải trải qua hành trình nguy hiểm đầy thử thách. Dấu ấn của mô típ tìm vật thiêng được tìm thấy ở “Về Kinh Bắc”. Nhưng sự khác biệt ở đây là nhân vật trong huyền thoại luôn có sự trợ giúp của lực lượng thần linh. Vì thế, hành trình đi tìm vật thiêng dầu có khó khăn hiểm trở bao nhiêu cũng đều tìm thấy. Còn thơ Hoàng Cầm luôn khép lại trong nỗi hụt hẫng bơ vơ của những câu chuyện không có hậu. Những thi phẩm của Hoàng Cầm mãi mãi là một cổ tích thời hiện đại, với tất cả những hụt hẫng, dang dở, những mơ ước không thành, những khước từ đau xót.
           Hành trình đi tìm vật thiêng được đặt trong một hành trình lớn hơn, bao quát cả tập thơ: hành trình đi tìm bản thể. Bản thể ấy cũng chính là một vật thiêng mà Hoàng Cầm kiếm tìm. Thực chất cuộc tuần du về Kinh Bắc là một cuộc tìm mình. Cho nên nhịp cuối cùng trong Về Kinh Bắc  là “Về với ta”. Đã có rất nhiều những cuộc đi tìm: Đi tìm hướng làng xa, Đi tìm con bướm bạc đầu, Đi tìm tóc rối đổi kẹo, Đi tìm đôi ếch cõng mưa rào, Đi tìm chổi xuể gậm giường um khói, Đi tìm vành khăn chít đầu ngải cứu, Em mười hai tuổi tìm theo chị,...Hoàng Cầm hướng về Kinh Bắc – nơi nguồn cội, quê hương để kiếm tìm bản thể. Cuộc hành trình về Kinh Bắc vì thế không phải là sự chuyển di trong không gian địa lí. Nó là cuộc tuần du trong tâm tưởng để trở về quê hương - nơi lưu giữ tình yêu và tuổi ấu thơ. Đó nguồn cội bình yên, thứ nước lành rửa những vết thương trong đời thực. Hoàng Cầm đã nhận ra bản thể của mình: Ta con phù du ao đời chật chội/ Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao. Con phù du ấy chính là bản ngã nhà thơ.
5.                      Cách xây dựng hình ảnh và tổ chức lời thơ
5.1.         Hình ảnh
Trong thơ Hoàng Cầm ta thấy tràn ngập những hình ảnh quen thuộc của văn học dân gian.Trước hết phải kể đến hình ảnh của những lễ hội dân gian. Tập thơ dành hẳn một nhịp Điểm trang để nói về những hội hè Kinh Bắc. Không khí lễ hội dân gian của một vùng quê được gợi lên sống động trong tập thơ với những: thi sợi bún, thi ăn mía thổi cơm, thi đánh đu, thi hát đúm, thi dệt vải, thi thêu gấm, hội chen Nga hoàng, hội Gióng, hội Long Khám, hội Vân Hà, hội đền Tám vua triều Lý. Hình ảnh của những lễ hội thường được nhắc đến rất nhiều trong các truyền thuyết, câu chuyện cổ, hay trong ca dao dân ca nay lại được thể hiện sống động trong thơ Hoàng Cầm. Hơn thế, Kinh Bắc là “vương quốc của lễ hội” nên như một điều rất tự nhiên hình ảnh của những lễ hội ấy đã in đậm vào tâm trí, để rồi để lại dấu ấn trên từng trang thơ của Hoàng Cầm. Ông miêu tả một cách chi tiết và sống động từng lễ hội dân gian. “Thi sợi bún/khi quất/ quấn năm vòng cột đình/không đứt”, “Thi ăn mía thổi cơm/ Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt/Lửa đâu sém cánh tay bột nặn/Cháy phù sa ngọt lịm Yên Viên”,...Còn đây là hình ảnh quen thuộc của hội đánh đu: “Luồn tay ôm say/giấc bay lay đỉnh núi/Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành/ Đùi chảy búp dài thon nhún vội/Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh”.
Nhưng cái cốt yếu của Hoàng Cầm không phải là tái hiện lại không khí lễ hội dân gian như trong văn học dân gian cũng không phải là dựng lên những bức tranh quê như Anh Thơ hay Đoàn Văn Cừ đã làm thời Thơ mới mà qua lễ hội ấy nhà thơ muốn nói về hồn Kinh Bắc, về những khát khao tình dục, những ẩn ức của con người trong trong ngày thường bị đè nén: Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát/ Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa, Đùi chảy búp dài thon nhún vội/ Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh, Vải gột hồ hai má gột môi hoang, Sân đình/ lại Thị Mầu í a tung tình/ rung rinh/ chờ,...Hội hè Kinh Bắc bảo lưu tín ngưỡng phồn thực - một trong những tín ngưỡng mang sức sống mạnh mẽ của dân gian.
Nhưng không chỉ có hình ảnh của những lễ hội dân gian mà nhà thơ trong “Về Kinh Bắc” còn sử dụng những hình ảnh mang đậm chất dân gian như hình ảnh áo và những biến thể của nó như yếm, khăn, thắt lưng, ...Đối với người phương Đông nói chung và người Việt Nam ta nói riêng rất coi trọng đến trang phục. Hình ảnh chiếc áo đã được trở đi trở lại trong văn học dân gian đặc biệt là trong những câu ca dao đặc biệt là những câu hát về tình yêu đôi lứa:
- Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay
- Đêm qua đêm lạnh đêm lùng
Đêm đắp áo rách đêm chung áo dài.....
Chiếc áo của những làn điệu dân gian đã bay từ ngàn xưa để đến với trang thơ của Hoàng Cầm để được ông vận dụng đồng thời khoác thêm cho nó những lớp nghĩa mới sâu sắc mang đậm cá tính sáng tạo. “Trong vương quốc tu hành ăn mặn và nằm chay hết mình, Hoàng Cầm đã tạo dựng cho mình một lá quốc kì ngoạn mục, là chiếc yếm ngàn xưa của người đàn bà” (Trần Mạnh Hảo). Cái yếm trong thơ Hoàng Cầm gắn liền với hình ảnh người Mẹ duyên dáng, tần tảo với tình mẫu tử thiêng liêng:
Đêm khoanh tròn ngủ tay bưng đầu
Ngón cụt thói quen sờ ngực yếm
                                                        (Đứa trẻ)
Và  mẹ về trong tâm trí con mang theo gió mát chênh chếch nẻo tàn trăng, mẹ sẽ : “Buộc yếm đào phai  vỗ đợi hát ru” (Đợi mùa) như ngày nào con còn bé dại. Kỉ niệm ấu thơ, những hồi ức về mẹ lam lũ tảo tần nuôi con hiện lên qua trang phục. Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng xúc động nhớ lại:
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
                                                          (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Nên bây giờ con đi tìm mẹ là con đi tìm “vành khăn chít đầu ngải cứu/Khăn mùa hoa đào/Khăn mùa hoa mai” (Quà mẹ) và xa quê là con “Nhớ lụa mưa lùa/Sồi non yếm tơ” (Mưa Thuận Thành)
Trong ca dao ngàn xưa hình ảnh chiếc yếm đã trở thành tín hiệu của tình yêu:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Thì nay trong thơ Hoàng Cầm cũng có ước ao ấy để bắc nhịp cầu tình yêu:
Qua sông tìm nhau
Tìm dải yếm nâu
Bắc cầu đôi ta
                                        (Khi mùa xuân trở về)
Chiếc yếm là tình yêu kì diệu để sưởi ấm lòng người vượt qua muôn giá lạnh của mùa đông:
Trời mưa trời gió kìn kìn
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông
Đó là trong ca dao còn trong thơ Hoàng Cầm đã có sự sáng tạo:
Áo em bỏ quên cành bưởi
Anh mang về anh đắp lấy hơi
Nhân vật trữ tình trong bài ca dao xưa bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen, còn em trong “Khi mùa xuân trở về” lại bỏ quên trên cành bưởi. Có phải là do vô tình hay vì hữu ý mà để làm tin. Trong ca dao hai người yêu nhau chỉ đắp đôi yếm đào mà thấy lòng mình ấm áp, còn đây anh đắp áo em chỉ là để “lấy hơi”.
Nhưng những áo,những yếm, những khăn trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là biểu tượng của tình yêu hay người chị người mẹ như trong ca dao mà nó còn mang một vẻ đẹp phồn thực tươi trẻ mà vẫn duyên dáng ý nhị:
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
                                                   (Đêm Thủy)

Trước mặt cào cào rộn cánh
Tốc xiêm y trăm sắc cung tần
                                                        (Ngựa)
Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
Ném xuống cầu em cởi áo ngày xưa
                                                        (Gái hậu Lê)
Những câu thơ ấy chính là đôi cánh của siêu thực đã bay cao lên trên mạch nguồn dân gian để đem lại nét đẹp rất đặc trưng của thơ Hoàng Cầm vừa quen thuộc vừa mới lạ hấp dẫn.



5.2.         Cách tổ chức lời thơ
Đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng gặp cách tổ chức ngôn ngữ của dân gian, nhất là của Quan họ. Những từ ngữ như: Chuốt rơm bện ổ, nhai trầu, chùm cau, têm trầu cánh phượng, ngực yếm, đêm trăng, mùa xuân, con thuyền, se chỉ trắng, con thoi dệt sợi..., nhà chứa, sợi xích thằng, sân đình, sân chùa, ba mươi sáu khúc bổng trầm, hát ru lanh lảnh, rồi những giọng, trốn, trộm, tìm... Qua sông tìm nhau / Tìm giải yếm nâu / Bắc cầu đôi ta / Tìm thắt lưng xanh / vắt cành hoa lý / Hỡi con chim khuyên / Hót chuyền cành tre / Có đến bên hè... (Khi mùa xuân về). Với Hoàng Cầm tiếng hát quan họ không chỉ là đặc sản cho một không gian văn hóa riêng của Kinh Bắc mà còn là bản sắc của một Việt Nam văn hoá và văn hiến. Có người nói chất quan họ trong thơ ông đã đạt đến độ hàn lâm. Tiếng hát Quan họ còn mang đậm nhiều giá trị nhân văn, nhân sinh cao cả trong lối sinh hoạt đặc trưng thể hiện tình người Quan họ:
Tiếng hát quan họ nâng gót chân lầm lỗi,
qua cầu về với mẹ cha
Nước mắt thương làm từng giọng gõ phù sa
đã thành ngọc trai giữa dòng sông Đuống
                       
(Tìm đến chân trời)
Hoàng Cầm đã đưa cái điệu hát ấy vào chính những câu thơ của mình làm cho nó amg đậm hồn quê. Viết về Kinh Bắc còn gì đẹp hơn, tinh tế hơn là dùng chính những lời ăn tiếng nói của người Kinh Bắc. Ông không chỉ đưa những ca từ quen thuộc mà còn mang cả âm điệu dìu dặt, tah thiết, quyến luyến ấy vào trong thơ của mình:
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
I…i…m…m
        ứ…!
I…i…m…m
        ứ…!
Mất rồi
Mười bảy mười ba
                                            (Gió lông ngỗng)
Tiếng ai rả rích chuyện gì khuya
                  Chợt tỉnh
…mắt dùi bóng tối
….À…ơi…
Câu ru mẹ mới
Có bàn tay vỗ tóc…
…ngủ đi con
                                              (Đứa trẻ)
Nhớ về mắt em
Ới thương là thương
Động gót mưa xuân
Cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
Cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương
                                               (Đếm nắng)
Những câu thơ mang đậm lối tư duy đặc trưng của người Việt đó là lối thơ trữ tình điệu ru với âm điệu mênh mang, nồng nàn hơi thở của dân ca quan họ, của ca dao. Nó vừa nhẹ nhàng vừa tha thiết lại lắng sâu trong điệu hồn xứ sở « ới thương là thương ».


KẾT LUẬN
1.                      Chuyên đề “Tư duy dân gian trong thơ Hoàng Cầm”  là một minh chứng cho mối quan hệ giữa văn hóa – văn học dân gian với văn học viết. Văn học dân gian đã là nguồn sữa nuôi dưỡng thi ca muôn đời nay, hành trình về với cội nguồn dân gian chưa bao giờ đứt đoạn từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến tới Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Trần Dần…Và Hoàng Cầm cũng là một trong số ít những nhà thơ hiện đại chọn một cách ứng xử là về với cội nguồn văn hóa dân gian.
2.                      Tư duy dân gian trong "Về Kinh Bắc" có cơ sở từ những yếu tố gia đình, quê hương, cuộc đời Hoàng Cầm. Sinh trưởng trong một gia đình quan họ, trên quê hương của dân ca, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Hoàng Cầm đã bén rễ rất nhanh, rất sâu vào cội nguồn để chắt lấy những giọt dinh dưỡng làm giàu cho thi ca của mình.
3.                      Tư duy dân gian đã được biểu hiện trên cả nội dung cũng như nghệ thuật của "Về Kinh Bắc" và thể hiện ở năm phương diện chính sau : 1 – Tư duy huyền thoại, 2 – Quan niệm tình yêu gắn liền với hôn nhân, 3 – Dạng thức của cái tôi trữ tình, 4 – Cách xây dựng môtip, 5 – Cách xây dựng hình ảnh và tổ chức lời thơ.Cùng chọn cách ứng xử là về nguồn nhưng ở mỗi nhà thơ ta lại thấy có những nét rất khác biệt. Ông khác với Nguyễn Bính trước đó và cũng khác với Nguyễn Duy hay Đồng Đức Bốn sau này. Những nhà thơ ấy đã kế thừa, sáng tạo làm mới văn học dân gian trong thơ mình để tạo thành một kiểu nhà thơ  rất khác với truyền thống – nhà thơ dân gian và sự ảnh hưởng ấy thiên về chất liệu như ở ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu, thể thơ…. Nhưng Hoàng Cầm không thế, ông ảnh hưởng ở văn học dân gian ở cái bề sâu đó chính là tư duy dân gian và trên nền tư duy ấy kết hợp cùng tư duy hiện đại để đẩy thơ sang một địa hạt khác gần với thơ siêu thực. Nhưng ông cũng khác với Hàn Mặc Tử, Bích Khê hay Đinh Hùng. Thơ Hoàng Cầm khôngg phải là vườn địa đàng, không phải là tranh lõa thể cũng không phải là vương quốc của huyền bí mà thơ ông được chắp cánh bay từ cội nguồn dân gian. Có lẽ chính vì thế mà thơ ông vừa quen vừa lạ, vừa có cái tính tế ý nhị của dân gian vừa có cái nồng nàn quyễn rũ của hiện đại. Hoàng Cầm thực sự là một hiện tượng thơ độc đáo của làng thơ Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lévy Bruhl. Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy. Nxb Thế giới, Tạp chí văn hóa nghệ thuật. H., 2008
2. JeanChevalier - Alaij Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, 1997
3. Hoàng Cầm, Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2011.
4. Lương Minh Chung, Đi tìm phong cách thơ Hoàng Cầm từ đặc điểm tâm lí người làng quan họ, Nguồn: http://vanhoanghean.vn
5. Phạm Thị Hoài. Đọc Mưa Thuận Thành, nguồn: www. Talawas.org
6. Trần Đức Hoàn, Không gian văn hóa quan họ trong thơ Hoàng Cầm, Nguồn: http://diendankienthuc.net
7. Mai Thị Nhiên, Hệ thống biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, 2010
8. Vũ Thị Trang Nhung, Trò chơi và lễ hội dân gian trong thơ Hoàng Cầm, Báo cáo khoa học khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, 2005
 9. A. Propp. Tuyển tập V. IA. Propp. Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa nghiệ thuật Hà Nội. H., 2003 (tập 1)
10. Chu Văn Sơn, Hoàng Cầm – Gã phù du Kinh Bắc, nguồn: www. Talawas.org
11.  Trần Thị Huyền Thương, Sự kết hợp giữa yếu tố hư và thực trong thơ Hoàng Cầm, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, 2001
12. Đỗ Lai Thúy, Bút pháp của ham muốn. Nxb Tri thức. H.,2009



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét