Có lẽ từ trước tới giờ các lí thuyết về phương pháp
đối với văn học phương Tây có lẽ đã được hình thành khá rõ nét và có ít những ý
kiến tranh luận nhưng với văn học phương Đông thì luôn có rất nhiều điều cần
tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc. Nếu trong thời kỳ trung cổ ở phương Tây có chủ
nghĩa hiện thực Phục Hưng thì trong thời kỳ phong kiến ấy ở phương Đông nói
chung và ở Việt Nam nói riêng thì liệu có chủ nghĩa hiện thực không. Và nếu có
thì đặc điểm của chúng như thế nào?
Trước đó thì việc tìm hiểu nghiêm túc khái niệm Chủ
nghĩa hiện thực có một vai trò hết sức quan trọng. Trong “Từ điển thuật ngữ Văn
học” (2009) do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên có nêu ra định
nghĩa: Chủ nghĩa hiện thực là “ một
phương pháp nghệ thuật hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, xác định trên những nguyên
tắc mỹ học”. Những nguyên tắc đó chính là : 1) Xây dựng những hình tượng điển hình,
điển hình hóa các sự kiện của đời sống, 2) Thừa nhận sự tác động qua lại giữa
con người và môi trường sống, giữa tính
cách và hoàn cảnh, 3) Coi trọng những chi tiết cụ thể, chính xác. Chủ
nghĩa hiện thực có thể sự dụng những huyền thoại, tượng trưng, ẩn dụ…song tất cả
những cái đó đều phải phục tùng những nguyên tắc sáng tác hiện thực chủ nghĩa.
Nói một cách ngắn gọn như quan niệm của
Ănghen: “ Theo tôi, ngoài chi tiết chân
thực chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi một sự tái hiện chân thực những tính cách
điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”. Những quan niệm này sẽ giúp
chúng ta soi chiếu vào văn học trung đại Việt Nam đề tìm hiểu thực chất chủ
nghĩa hiện thực đã hình thành chưa và nó có những đặc điểm như thế nào.
Đầu tiên về mặt thuật ngữ: có nên sử dụng khái niệm
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam? Chủ nghĩa hiện thực đã xuất
hiện trong văn học trung đại hay chưa? Điều này thực sự đã gây ra những tranh
luận nhất định, có nhiều ý kiến rất khác nhau và chia làm hai xu hướng chính.Thứ
nhất là hướng đồng ý cho rằng có chủ nghĩa hiện thực trong văn học dân tộc trong
văn học trung đại với quan niệm của Lê
Đình Kỵ, Đỗ Đức Dục. Hai nhà nghiên cứu đều khẳng định sự có mặt của Chủ nghĩa
hiện thực với đỉnh cao nghệ thuật “Truyện
Kiều” và theo Đỗ Đức Dục còn có những tác phẩm khác như “ Hoàng Lê nhất thống chí”, các tác phẩm
truyện Nôm,… cho tới thơ của Tú Xương.
Hướng thứ hai là của những nhà nghiên cứu như Nguyễn Lộc, Nguyễn Đình Chú… khi
các ông khẳng định rằng chưa có chủ nghĩa hiện thực thật sự trong văn học trung
đại Việt Nam. Sự khẳng định ấy thể hiện rất rõ nét khi các nhà nghiên cứu tìm
hiểu có hay không chủ nghĩa hiện thực
trong “Truyện Kiều”. Nguyễn Lộc cho rằng:
“ Nguyễn Du đã đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực, đã
tiếp cận với chủ nghĩa hiện thực”.Trần Nho Thìn , Cao Xuân Quý đã khẳng định
chưa thể có chủ nghĩa hiện thực trong “Truyện
Kiều”… Tới những nhà thơ sau này như Tú Xương, Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ
cũng khẳng định: “ Phương pháp nghệ thuật
của Tú Xương chưa phải, chưa thể là phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Mật độ hiện
thực ở thơ Tú Xương vẫn còn là những nhân tố, tuy rằng nhân tố hiện thực trong
thơ Tú Xương nhiều hơn, cô đọng hơn, sâu sắc hơn ở các nhà thơ trào phúng trước
ông hoặc đồng thời với ông”.
Theo quan điểm của tôi, tôi cũng đồng ý rằng chưa có
một chủ nghĩa hiện thực đích thực trong văn học trung đại Việt Nam.Vẫn biết rằng
sự xem xét có hay không một phương pháp sáng tác phải dựa trên những đặc điểm
riêng có của một nền văn học để định đoạt,
xét trong nội tại riêng nền văn học ấy nhưng cũng phải xem những yếu tố bối cảnh
kinh tế xã hội, hoàn cảnh lịch sử văn học đã đủ điều kiện chín muồi cho sự xuất
hiện và khẳng định một phương pháp sáng tác hay chưa? Theo tôi thì chưa có chủ
nghĩa hiện thực trong văn học trung đại mà mới chỉ có sự vận động tiến lên theo hướng chủ nghĩa hiện thực mà thôi. Thời
kì đầu thì nhìn chung xã hội phong kiến Việt Nam phát triển khá vững chắc, giai
cấp thống trị được sự ủng hộ của nhân dân, có những thời đại phát triển khá rực
rỡ, có thể coi như đó là thời kì hoàng
kim của chế độ phong kiến Việt Nam như thời đại Lý Trần, thời Hậu Lê. Từ khoảng
cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến đi vào khủng hoảng trầm trọng
và không có lối thoát. Sự sụp đổ của hệ thống ý thức hệ chính trị, Nho giáo khủng
hoảng, những cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân đã làm cho văn học thời kỳ
này khám phá ra con người và những giá trị chân chính của con người, văn học bắt
đầu chú ý nhiều hơn tới chức năng nhận thức nhưng phải nói rằng những sự thay đổi
ấy chưa thể là tiền đề cho sự xuất hiện một phương pháp sáng tác mới. Nó mới chỉ
mang tính chất khắc phục những nhược
điểm của giai đoạn trước làm cho văn học bắt đầu đi gần vào với đời sống nhiều
hơn.Con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực do những điều kiện lịch sử cụ thể của
dân tộc chứ không phải do sự khắc phục những yếu tố huyền bí có tính chất tôn
giáo trong thế giới quan của nhà văn, mà chủ yếu là chủ yếu là sự khắc phục
tính cách quy phạm, chủ nghĩa giáo điều, giáo huấn một cách thuần túy xuất phát
từ mục đích có tính chất đạo đức học và những ràng buộc của quan niệm mỹ học
phong kiến đối lập cái cao quý với cái hàng ngày, cái đạo đức với cái đời sống.Văn học thời kỳ này về cơ bản đã đề cao chức năng
nhận thức lên hàng đầu nhưng có thể thấy rằng do thế giới quan của nhà thơ, nhà
văn trong những thời kỳ này còn có những mặt tính chất duy tâm thần bí, do tư
tưởng chính thống của họ còn chi phối và do quan niệm phong kiến chừng nào còn
tác động, cho nên khả năng nhận thức giai đoạn này còn hạn chế và hình thức phản
ánh của nó cũng chưa phải phong phú đa dạng. Và một điều cốt lõi với chủ nghĩa
hiện thực là phản ánh trung thực một cách đời sống. Văn học thời kì này cũng đã
dựng lên những bức tranh nhiện thực nhưng phải nói rằng nó còn chưa có tính cụ
thể và chi tiết. Nó chưa nhận thức đời sống bằng hình thức của bản thân đời sống.
Như trong thơ Hồ Xuân Hương đề tài không chung chung mà khá cụ thể , một số đề
tài lấy chính cảnh ngộ của cá nhân thi sỹ, cách biểu hiện của nhà thơ cũng có
tính chất cá thể hóa, nói tình cảm của mình cũng như của nhân dân, sử dụng lời
ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.Nhưng người ta vẫn thấy cái chung còn lấn
át cái riêng, và cái riêng trong thơ Hồ Xuân Hương mới chỉ biểu hiện ở ngôn ngữ,
ở bút pháp chứ chưa phải là ở khâu nhận thức. Đối tượng nhận thức trong thơ bà vẫn chưa có tính cá thể hóa và điển hình hóa.
Ngay tới Nguyễn Du do chỗ ông vẫn chịu ảnh
hưởng từ quan niệm truyền thống của xã hội phong kiến về sáng tác văn học cho
nên cách phản ánh của ông chưa mang được đầy đủ chi tiết. Có thể nói trong một
chừng mực nào đó thì tác phẩm của ông vẫn chưa mang tính cụ thể chi tiết. Vì vậy
mặc dù Nguyễn Du đã nêu được những vấn đề bức thiết của đời sống, tạo ra được
không khí của thời đại nhưng đó vẫn chưa phải là bức tranh của bản thân đời sống.
Và “Hoàng Lê nhất thống chí” tuy đã
phản ánh được chân thực một xã hội trên
quy mô rộng lớn,bước đầu xây dựng được
những nhân vật có cá tính nhưng mặt khác cũng do hạn chế của ngôn ngữ và do dấu
vết của quan niệm văn sử triết bất phân cho nên trong tác phẩm nhân vật chưa phải
là đối tượng nhận thức, nhân vật có cá tính mà chưa có nội tâm, nhà văn không
tránh khỏi những lúc ghi chép sự kiện một cách biên niên….Về phương diện thủ pháp nghệ thuật, trong văn học trung đại Việt
Nam giai đoạn đầu thì vẫn còn chịu sự chi phối nặng nề của phương pháp sáng tác
cũ, tới cuối thế kỉ XVIII thì bắt đầu có
xu hướng phá vỡ những thủ pháp nghệ thuật ấy để thay thế bằng những thủ
pháp của nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Nhưng có thể thấy rằng những thủ pháp
của văn học cổ điển vẫn chi phối rất nhiều. Ví dụ như những truyện Nôm trong
giai đoạn này, những truyện Nôm bình dân tuy lấy cốt truyện từ dân gian, ngôn
ngữ mộc mạc giản dị nhưng vẫn chịu rất nhiều yếu tố ước lệ, và tác phẩm vẫn có
tư tưởng định mệnh, và thuyết giáo cho một đạo lý, có đấu tranh chống lại xã hội
nhưng rồi vẫn bị khuất phục hoặc những chà đạp làm cho những tác phẩm có màu sắc
bi quan. Ở truyện Nôm bác học mà tiêu biểu là “Truyện Kiều” đã có những sự cách tân nghệ thuật theo hướng chủ
nghĩa hiện thực nhưng chưa thể như Lê Đình Kị khẳng định rằng có một chủ nghĩa
hiện thực. Những nhân vật phản diện thì cơ bản được xây dựng theo lối điển hình
hóa, nhưng những nhân vật chính diện vẫn xây dựng theo lối cũ, có tính chất lí
tưởng hóa, mang nhiều nét ước lệ tượng trưng phong kiến. Trường hợp nhân vật
Thúy Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm quá trình điển hình hóa chưa hẳn
theo lối lý tưởng hóa cũng chưa hẳn theo lối điển hình hóa của chủ nghĩa hiện
thực. Với Thúy Kiều nhà văn bắt đầu chú ý tới mối tương quan nhân vật với hoàn
cảnh, tới nội tâm nhân vật, nhân vật được nhìn trong cái nhìn đa diện hơn chứ
không còn đơn giản một chiều. Nhưng nhân vật của Nguyễn Du vẫn còn chịu ảnh hưởng
rất nhiều từ thuyết nhân quả của Phật giáo, thuyết định mệnh của Nho giáo nên
không tránh khỏi có những chỗ bị gượng
ép nhất định, số phận của nhân vật được phục vụ cho những tư tưởng của Nguyễn
Du. Nguyễn Du khao khát thấu hiêu cái thế giới khách quan, cái xã hội muôn hình
vạn trạng đang hiển hiện trước mắt nhưng trình độ nhận thức, nghiên cứu và phân
tích chưa cho phép thực hiện được. Cuối cùng vẫn chịu sự chi phối của những
quan niệm siêu hình truyền thống chi phối ở một mức độ nhất định. Và thậm chí
ngay cả thời kỳ văn học nửa cuối thế kỷ XIX, văn học đã mang tính thời sự, tính
dân chủ, tính cụ thể lịch sử đã được thể hiện rõ nét hơn ví dụ như trong những
tác phẩm của Tú Xương. Nhưng có thể thấy rằng những yếu tố ấy vẫn còn rất lẻ tẻ,
rời rạc, và vẫn không thoát được cái nhìn của một nhà Nho. Tú Xương tài tình là
thế mà vẫn cứ đeo đẳng mãi nghiệp khoa cử để rồi mang nỗi buồn, tủi, sầu, đau
suốt cuộc đời… Như vậy văn học trung đại Việt Nam đang xuất hiện những mầm mống
của chủ nghĩa hiện thực. Xã hội chưa
cung cấp những tiền đề vật chất và tư tưởng cho sự khắc phục một cách triệt để
những yếu tố phong kiến trong cách nhận thức và phản ánh cuộc sống cho nên văn
học giai đoạn này tuy có sự vận động đi lên chủ nghĩa hiện thực nhưng chưa có
được một chủ nghĩa hiện thực với tư cách như một phương pháp sáng tác. Vì thế
theo tôi khái niệm chủ nghĩa hiện thực dùng sẽ không thật chuẩn xác với thời kỳ
văn học này mà nên dùng là khuynh hướng
hiện thực hay những yếu tố/ giá trị của chủ nghĩa hiện thực trong văn học
trung đại Việt Nam.
Sau khi khẳng định về sự xuất hiện của khuynh hướng
hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam, về sự sử dụng thuật ngữ, người viết
xin được trình bày về những đặc điểm của khuynh hướng hiện thực trong thời kỳ
này của văn học dân tộc.
Cơ sở lịch sử xã
hội và ý thức: Từ thế kỉ X tới thế kỉ XVIII dù trong
lòng xã hội có những biến thiên nhất định nhưng giai đoạn này nhìn chung vẫn là
sự khẳng định nhà nước phong kiến, nền Nho giáo vẫn thống trị ý thức hệ tư tưởng.
Nhưng tới nửa cuối thế kỷ XVIII thì xã hội phong kiến đi vào khủng hoảng trầm
trọng, ý thức hệ phong kiến Nho giáo đã bị rung chuyển sâu sắc. Trên cơ sở đó
đã làm cho nhiều nhà thơ, nhà văn thấy được những mặt hạn chế của chế độ phong
kiến, không còn tin tưởng vào một nhà nước lí tưởng nữa. Và những mầm mống của
chủ nghĩa tư bản xuất hiện với một tầng lớp mới đó là thị dân, nhưng giai tầng
này chưa có vai trò gì thật đặc biệt trong xã hội. Đó chính là điều rất khác biệt
với thời đại Phục Hưng ở phương Tây, khi đó xã hội của họ đã có một giai cấp mới
mang theo những luồng tư tưởng mới, với chủ nghĩa duy vật lịch sử, những tư tưởng
khoa học tiến bộ. Còn ở ta mới chỉ là những mầm mống thô sơ của duy vật, giai cấp
mới chưa xuất hiện, nền móng tư tưởng cũ vẫn còn và đang bị suy yếu, những tư
tưởng mới thì chưa có. Và nếu như ở Tây phương thời kỳ này những tư tưởng thần
quyền bị lên án, đào thải thì ở Việt Nam yếu tố thần bí tôn giáo vẫn còn tồn tại
khá nhiều trong nội dung tư tưởng do trình độ nhận thức khoa học thể hiện ở vấn
đề xây dựng hình tượng, xây dựng tính cách, vấn đề khái quát hóa và điển hình
hóa… Có thể thấy như ngay trong “Truyện Kiều”,
ta thấy có một chủ nghĩa định mệnh trong “Truyện
Kiều”, nó giống như bóng ma Đạm Tiên, có khi vô hình thấm đượm vào những
câu thơ, thậm chí có khi được cụ thể hóa trong hình tượng, trong những lời phát
biểu giải thích của tác giả:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã
bắt làm người có thân
Bắt phong
trần phải phong trần
Cho thanh cao
mới được phần thanh cao…
Trong văn học
trung đại Việt Nam đã bắt đầu xây dựng được những hình tượng điển hình
như hình tượng của những kẻ lưu manh chuyên buôn thịt bán người Mã Gám Sinh, Tú
bà, Sở Khanh hay một tên quan vô lại như Hồ Tôn Hiến. Hình tượng một chàng trai
thư sinh đa tình mà bạc nhược như Thúc Sinh, một người đàn bà sắc sảo, với cơn
ghen nổi tiếng trong văn học Việt Nam - Hoạn Thư. Có thể nói đó là những điển
hình trong một câu chuyện nhưng đã trở thành điển hình cho cả một lớp người ở
biết bao thời đại. Song có những nhân vật tính chất điển hình hóa còn chưa được
rõ nét. Như nhân vật chính trong “Truyện
Kiều” Thúy Kiều bản chất giai cấp rất khó xác định. Thúy Kiều là điển hình
cho giai cấp nào trong xã hội? Miêu tả Thúy Kiều Nguyễn Du đã ghi được những
nét tâm lí rất sâu sắc của nhân vật nhưng khi miêu tả ngoại hình, số phận thì
nhà thơ dùng thủ pháp ước lệ là chính, có khi là lý tưởng hóa nhân vật. Và người
anh hùng như Từ Hải - một nhân vật phản nghịch nhưng lại chủ yếu được xây dựng
bằng nghệ thuật lí tưởng hóa, nhân vật được hiện lên khá cụ thể sinh động nhưng
tính cách nhất quán không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Từ Hải là giấc mơ
công lí của Nguyễn Du, nhưng cuối cùng giấc mơ ấy lại đi vào bế tắc. Nhìn chung
các tác giả thời kì này vẫn chưa thể xây dựng được những nhân vật diển hình
trong những hoàn cảnh điển hình. Mối liên hệ của con người với hoàn cảnh vẫn
chưa được chú ý và cũng chưa có thật nhiều những nhân vật mang tính chất điển
hình. Sau “Truyện Kiều” và “Hoàng Lê nhất thống chí” thì chưa có một
tác phẩm lớn nào xây dựng được những nhân vật như thế. Song có thể nói rằng văn
học thời kì này đã có những bước nhảy vọt, đang tiến dần tới chủ nghĩa hiện thực
nhưng so với văn học phục Hưng những điển hình sắc nét ấy vẫn còn hãn hữu và chưa thật hoàn chỉnh.
Do thiếu sự phân tích khoa học cụ thể, do trình độ tổng hợp, khái quát còn thấp,
cũng do lối suy nghĩ và biểu hiện mang nhiều tính chất hàm súc, trừu tượng,thiên
về ước lệ tượng trưng cách điệu, những tính cách nhân vật trong văn học trung đại
Việt Nam tuy có mặt cô đọng nhưng có chỗ còn giản đơn. Đặc biệt mối quan hệ giữa
nhân vật với hoàn cảnh xã hội chung quanh nhất là với đời sống kinh tế, vật chất
còn được ít chú ý, vai trò của quần chúng nhân dân bị lu mờ.
Khuynh hướng hiện thực trong văn học trung đại Việt
Nam còn tản mạn, không đều mang tính chất
tự phát, chất phác. Trong rất nhiều tác phẩm ta đã thấy xuất hiện những yếu tố hiện thực nhưng chúng chỉ xuất hiện một
cách rải rác, không tập trung. Ta thấy có hai tác phẩm lớn nhất cần chú ý với
khuynh hướng hiện thực rõ nét hơn cả đó là “Truyện
Kiều” và “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Trong khi đó ở Văn học Phục Hưng thì có rất nhiều những tác phẩm lớn, những
nhân vật điển hình mang tính thời đại, và sự xuất hiện mang tính tập trung, sâu
sắc. Chỉ một nhà văn thôi nhưng cũng có thể xây dựng được rất nhiều những hình
tượng điển hình như Shakespeare ông đã xây dựng nên những hình tượng như Hamlet- một người anh hùng đấu tranh cho
lí tưởng sống, một Sâylốc lưu manh, sảo trá,… Ở văn học Việt Nam thời kì này ý
thức người cầm bút đã bắt đầu ý thức về việc phản ánh đời sống nhưng nó vẫn
chưa có sức khái quát, còn lẻ tẻ, rời rạc….Đó là do rất nhiều những lí do nhưng
căn bản vẫn là do xã hội thời đại bấy giờ chưa cung cấp cho văn học những tiền
đề chín muồi, thế giới quan vẫn còn lạc hậu, chưa phát triển tư duy khoa học…
Và có thể thấy rằng trong thời kì văn học này,những tác phẩm văn xuôi rất ít,
chủ yếu là thơ, lại là thơ Đường luật hàm súc nên việc phản ánh hiện thực, việc
xây dựng hình tượng những nhân vật điển hình gặp nhiều khó khăn.
Khuynh hướng văn học thời đại này có sự gắn bó khá chặt chẽ với tinh thần nhân đạo.
Việc phản ánh hiện thực trong các tác phẩm có vai trò rất quan trọng trong việc
thể hiện những tư tưởng nhân đạo, tình yêu thương con người của các tác giả. Các
nhà văn giai đoạn này đặc biệt là từ giữa thế kỉ XVIII trở đi xuất hiện một
trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, việc phản ánh hiện thực, xây dựng những nhân vật
điển hình, những hoàn cảnh điển hình trong tác phẩm góp phần quan trọng giúp
nhà văn thể hiện cái nhìn, quan diểm và đặc biệt là tình cảm nhân đạo đối với
nhân vật với con người và cuộc đời nói chung. Như trong “ Truyện Kiều”, Nguyễn Du qua việc xây dựng nên hình tượng nhân vật
Thúy Kiều tác giả đã gửi gắm vào trong đó biết bao tình cảm của mình. Nhà thơ
đã lên tiếng nói đả kích vào xã hội phong kiến, đòi giải phóng tình cảm cho con
người, đòi khẳng định quyền sống, quyền tự do cá nhân,…Hay như trong “ Sở kiến hành” bằng việc phơi bày ra hiện
thực đối lập giữa cảnh chết đói của những người dân với cảnh hoa lệ của nhà vua
Nguyễn Du đã tố cáo hiện thực cuộc sống cực khổ của người dân đồng thời thể hiện
nỗi xót thương của mình dành cho những con người nghèo khổ trong xã hội loạn lạc,
đầy những biến động lúc bấy giờ.
Như vậy trong văn học trung đại Việt Nam đã bước đầu
có những bước phát triển tới chủ nghĩa hiện thực nhưng vẫn chưa tới được chủ
nghĩa hiện thực thực sự. Có nhiều nguyên nhân như trên đã giải thích nhưng
nguyên nhân chính vẫn là do cơ sở xã hội chưa có những yếu tố đủ sức tạo nên một
chủ nghĩa hiên thực có tư cách như một phương pháp sáng tác. Bởi văn học luôn gắn
liền với hoàn cảnh ý thức xã hội, mỗi một phương pháp nghệ thuật ra đời gắn bó
với một môi tường xã hội nhất định. Những tiếp thu từ nền văn học dân gian,
cùng hoàn cảnh xã hội thúc đẩy và ngòi bút nghệ thuật, ý thức sáng tạo, tình
yêu đời, yêu người của người nghệ sỹ đã giúp những nhà văn thời kì này vẽ nên
những bức tranh vô cùng sinh động về con người và cuộc sống, những bức chân
dung điển hình của thời đại lúc bấy giờ… để bước đầu tạo dựng nên những nền
móng cho chủ nghĩa hiện thực xuất hiện và phát triển đỉnh cao ở những năm ba
mươi của thế kỉ XX.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét